Thursday, September 29, 2011

Du linh tinh:)

Trích dẫn Bắc Âu viết Nghía cột cây số
Chú Trim ơi cho cháu hỏi: chiều tối ngày 1/10 khu vực Mỹ Đình thời tiết có đẹp không ợ. Thanks chú Trim chước ạ.
Hic, nhà em dự chắc chắn có mưa ạ. Có thể giữa trưa hoặc đầu giờ chiều thì lại ngon được 1 tí. Tuy mưa nhưng không nhiều nếu không muốn nói rất ít ạ.
Trích dẫn Sonrack viết Nghía cột cây số
Cụ Chim xem giúp cuối tuần tới, mạn Hà giang có mưa to gió lớn gì không giúp em nhé!
Thank!
Em dự bên FB roài ná
Trích dẫn perfect_vp viết Nghía cột cây số
thôi xong, mọi kế hoạch của em tan biến rồi, em hy vọng là cụ dự sai ạ, em muốn t6 này nắng đẹp cả ngày, tối thì nóng.
Híc, đến hôm nay thì nhà em chắc đến 90% roài cụ ạ. Tỷ ệ sai số đã giảm đáng kể
Trích dẫn henry tran viết Nghía cột cây số
cụ trim cho iem hỏi tình hình mưa bão cuối tuần thế nào ạ; thấy bảo khả năng mưa to lắm?
Vầng, nhà em dự từ trưa mai đã bắt đầu, nhưng khoảng chiều tối ngày kia đến sáng sớm thứ 7 là mưa nhiều nhất ạ. Đen cái lại gặp cả không khí lạnh về cùng chung vui đợt này với ảnh hưởng của bão
Trích dẫn TÔN viết Nghía cột cây số
bão vào hà nội mấy ngày thì mới hết hả anh chim ơi
Chắc đến trua thứ 2 thì hết mưa và bắt đầu có nắng chú Tôn ạ
Trích dẫn huy_hoang78 viết Nghía cột cây số
Tình hình chủ nhật này thời tiết thế nào cụ Chim ơi? Hôm đấy em khai trương quán, cụ xem cho cẩn thận hộ với nhá! Sẽ hậu tạ cụ!!!
M-ịe, uống mòn mồm roài mà chưa khai trương à?. Nhà e dự cụ sẽ có nhiều lộc.

Chúc khai trương phát đạt nhé. Anh em 77 đến thì nhớ giảm giá.
Trích dẫn tuanlong83 viết Nghía cột cây số
từ mùng 3-5 /10 ở HN có khả năng có mưa to ko cụ nhỉ
Có thể sáng sớm 3/10 vẫn còn có tí tí mưa, nhưng những ngày còn lại cụ hỏi thì trời đều nắng đẹp, tiết thu dễ chịu, nhiệt đọ khôg cao, không thấp dù có đợt gió mùa nhưng có vẻ chỉ man mát thôi ạ.
Trích dẫn perfect_vp viết Nghía cột cây số
cụ chim ơi, tối nay bên cầu giấy có mưa ko ạ, công việc tối mai e đây lên tối nay mà mưa thì chết,
Giờ tối mất roài mờ. Nhà em dự cứ lẵng nhẵng mưa thế này đến sáng mai, thỉnh thoảng tạnh tí lại mưa, rồi đến chiều tối hoặc đêm mai sẽ có mưa to ạ.

Thursday, August 25, 2011

Dự báo thời tiết cuối tuần khu vực Hà Nội 26-29 Aug

Nhà em dự là cuối tuần này thời tiết khu vực Hà nội tuyệt đẹp. Trời nắng, gió nhẹ, ít mây. Nhiệt độ cao nhất khoảng 33 độ C, thấp nhất khoảng 28 độ C. Duy nhất có khả năng nhưng rất thấp là có cơn giông vào tối Chủ nhật.

Thursday, August 18, 2011

Giá Trị Pháp Lý và Tính Chính Thống Của Hiến Pháp Việt Nam Hiện Nay Từ Cơ Sở Pháp Lý Của Hiến Pháp 1946

I. Những Ý Niệm Căn Bản Về Hiến Pháp

Hiến pháp là bộ luật tối cao của một quốc gia định nguyên tắc tổ chức guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội trong đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền của công dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định, chính thống và hợp pháp của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền nào không thực thi hiến pháp, phản bội các điều khoản của hiến pháp, nhà cầm quyền ấy tự mình chấm dứt giá trị pháp lý và tính chính thống về giá trị quyền lực lãnh đạo quốc dân. [1]

Để xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân, hiến pháp luôn luôn phải được toàn thể nhân dân chấp thuận và mọi sự thay đổi hiến pháp phải luôn luôn được toàn thể nhân dân quyết định bằng lá phiếu. Hiến pháp gọi đó là quyền phúc quyết. Quyền phúc quyết cộng với các quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền bình đẳng cơ hội về quyền lợi và nghĩa vụ kính tế chính trị văn hoá, và các quyền công dân khác xác định nhân dân là chủ nhân ông của đất nước. Khi nhân dân được phúc quyết hiến pháp hay đưọc tự do ứng cử và bầu cử đó là lúc họ thực sự hành sử quyền làm chủ đất nước của mình.

II. Sự Ra Đời Của Hiến Pháp 1946

Năm 1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu đầu tiên của đất nước ta. Sau đó quốc hội được bổ xung thêm các dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống Pháp không Cộng Sản. Quốc hội đầu tiên nầy tập hợp được nhiều thành phần xã hội và đảng phái chính trị có những xu hưóng khác nhau. Ngoài các nhà cách mạng tả phái mà đại diện là các ông Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, có sự tham dự của các nhà cách mạng tiên khởi thời Phan Bội Châu như cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu phái như các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Trần Trung Dung vv... [2] [3] [4] [10].

Sau đó, Quốc Hội đã bầu ra một Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp đã gồm 11 người, thuộc mọi thành phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái chính trị và các tầng lớp nhân dân khác nhau do ông Hồ Chí Minh chủ trì.

Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội Việt nam đã thông qua hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt Nam độc lập.

Về phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền căn bản của công dân trong đó có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa (điều 6), quyền bình đảng trước pháp luật (điều 7), quyền tự do ứng cử và bầu cử (điều 18), nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều 21). Hiến pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại quốc tranh đấu cho tự do dân chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên đất Việt nam (điều 16).

Quan trọng nhất là không nó không hề có một điều khoản nào qui định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. [5]

Đứng trên phương diện lịch sử, hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý khai sinh nước Việt Nam độc lập sau hơn 80 năm bị mất chủ quyền về tay thực dân Pháp. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau khi quốc hội thông qua hiến pháp nên hiến pháp 1946 không được chính thức công bố và cuộc tổng tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành. Tuy nhiên, theo tài liệu của đảng Cộng Sản thì chính phủ và ban thường vụ quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động trong nước. [5] . Và hiến pháp đó có giá trị cho đến năm 1960 khi hiến pháp 1959 được ban hành.

Tài liệu Đảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau: Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là bản hiến pháp mẩu mực trên nhiều phương diện. [6]

Mặc dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo thủ tục của hiến pháp vì hoàn cảnh chiến tranh, và mặc dù những điều khoản của hiến pháp đã bị nhà nước vi phạm, chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ đã công nhận hiến pháp 1946 là khế ước hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm quyền đương thời. Hiến pháp 1946 xác định những giá trị căn bản về văn hoá, chính trị và kinh tế và biến những giá trị trị đó thành những lý tưởng và ước vọng dân tộc mà thế hệ 1945 đã hy sinh xương máu để chiến đấu và bảo vệ. Đồng thời nó xác định nhân dân là chủ nhân ông tuyệt đối của đất nước.

Do đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là nền tảng pháp lý ắt có và đủ để xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân chủ và độc lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.

III. Cái Chết Oan Khiên Của Hiến Pháp 1946 và Tính Chất Bất Hợp Pháp của Các Hiến Pháp Kế Thừa

Xác định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến pháp 1946 để nhấn mạnh một điểm là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1980 cho đến nay) đều phải mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946.

Sau năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là 3 hiến pháp. Các hiến pháp tuần tự ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm 1960, 1980 và 1992.

Tài liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản hiến pháp kế thừa trực tiếp bản hiến pháp 1946, như sau:

"Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ sáu, Quốc Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi".

Tài liệu này viết tiếp: "Sau khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân dân, chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được chỉnh lý lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để tòan dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận nầy làm trong 4 tháng liền tại khắp nơi trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia".

Tài liệu trên kết luận về phần thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 như sau: “Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960 Chủ tịch ký sắc lệnh công bố hiến pháp.” [7]

Khi bàn về hiến pháp 1959, tài liệu của ĐCSVN viết như sau: “Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.”[7]

Những trích dẫn kể trên cho thấy nhà nước tự ý tuyên bố là Hiến Pháp 1946 đã "hoàn thành sứ mệnh" của nó mà không nói rõ ràng thế nào là "sứ mệnh của hiến pháp" và thế nào là "hoàn thành". Trong hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào xác định "sứ mệnh của hiến pháp" và ấn định rằng khi hiến pháp "hoàn thành" sứ mệnh của nó thì giá trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dứt.

Thế thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hòan toàn vô căn cứ. Cái chết của hiến pháp 1946 là một cái chết oan khiên, cái chết ngụy tạo. Hiến pháp 1946 đã bị ĐCSVN xé bỏ một cách tức tưởi vì hiến pháp 1959 không có lý do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp 1946.

Hơn nữa, vì nhà nước xác nhận hiến pháp 1959 là hiến pháp kế thừa của hiến pháp 1946 và đã cam kết điều hành đất nước theo tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946 nên sự thay đổi hiến pháp cũng phải tuân thủ yêu cầu của hiến pháp 1946.

Điều 70 của Hiến Pháp 1946 liên quan đến vấn đề thay đổi hiến pháp qui định như sau:

“Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:

a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết."

Thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 theo tài liệu của chính Đảng Cộng Sản dẫn chứng ở trên, đã chứng minh sự ra đời của hiến pháp nầy đã không theo đúng thủ tục tu chính hiến pháp qui định trong điều 70 của hiến pháp 1946.

Việc đem dự thảo hiến pháp ra cho "tòan dân" thảo luận và đóng góp ý kiến "một cách sôi nổi” như tài liệu ĐCSVN cho biết là một thủ tục tốt, nhưng hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Hiến pháp 1946 không đòi hỏi nhân dân phải thảo luận và đóng góp ý kiến một cách … sôi nổi. Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng, minh bạch, ngắn gọn và dễ hiểu là những thay đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết. Thủ tục phúc quyết này cần được hiểu là phải được thực hiện qua một cuộc trưng cầu dân ý (referendum) tự do để thể hiện sự chấp thuận của toàn dân. [8]

Sau khi tự ý bãi bỏ quyền phủ quyết của nhân dân trong quá trình thay đổi hiến pháp, ĐCSVN đã hợp thức hoá thủ tục bất hợp hiến nầy với hiến pháp 1959. Điều 112 của hiến pháp 1959 quy định thủ tục Sửa Đổi Hiến Pháp như sau:

Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

So sánh điều khoản Sửa Đổi Hiến Pháp của hiến pháp 1946 và hiến pháp 1959, chúng ta thấy rằng với hiến pháp 1959, nhà cầm quyền CSVN đã loại hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân. Hơn thế nữa, ĐCSVN như thể sợ nhân dân đứng lên đòi lại quyền phúc quyết nên phải nhấn mạnh thêm là chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Và dường như họ tin rằng nếu họ tự ý thay đổi điều khoản tu chính hiến pháp như thế thì họ có toàn quyền và tùy nghi thay đổi toàn bộ hiến pháp cho thích hợp với nhu cầu chính trị bất chấp giá trị thiêng liêng của khế ước chính trị giữa nhân dân và nhà cầm quyền.

Vì sự thể quyền phúc quyết những thay đổi hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân,
Vì sự thể điều 70 hiến pháp 1946 qui định thủ tục pháp lý của sự thay đổi hiến pháp,
Vì sự thể lý do sửa đỏi hiến pháp có tính chất ngụy tạo,
Vì sự thể thủ tục sửa đổi hiến pháp để cho ra đời hiến pháp 1959 đã vi phạm nghiêm trọng điều 70 nầy,
Vì sự thể hiến pháp 1959 và các hiến pháp sau đó tước đoạt quyền sửa đồi hiến pháp của nhân dân Việt Nam

Chúng ta có thể khẳng định rằng, hiến pháp 1959 cùng các hiến pháp xuất hiện sau đó hoàn toàn không có dân chủ, bất hợp hiến và bất hợp pháp vì không có tính kế thừa và tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Và vì thế, các hiến pháp kế thừa không có năng lực pháp lý để xác định tính chất hợp pháp và chính thống của nhà cầm quyền .

IV. Lối Ra và Lối Về

Nhận định về tính chất dân chủ của thủ tục lập hiến của nước ta hiện nay, luật sư Nguyễn Văn Thảo, cố vấn pháp luật của quốc hội và bộ chính trị ĐCSVN, trình bày trong bài viết "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp" đăng trong Tạp Chí Cộng Sản số 12 tháng 6-2001, cho rằng thủ tục lập hiến của các hiến pháp xuất hiện sau hiến pháp 1946 không có tính cách dân chủ. Trong bài nầy Luật Sư Thảo đã có những nhận định về thủ tục soạn thảo hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 như sau:

"Thực tiễn nước ta có hai công thức soạn thảo (hiến pháp):
• Ban soạn thảo hiến pháp + trưng cầu dân ý (hiến pháp 1946)
• Ban soạn thảo hiến pháp + hỏi ý kiến nhân dân (hiếnpháp 1959, 1980, 1992)
Trong hai công thức trên, tổ chức trưng cầu dân ý là một thành tựu về phát huy dân chủ trực tiếp, thực chất là để từng công dân tham gia trực tiếp vào việc thông qua hiến pháp.
Công thức thành lập Ủy Ban soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân rồi trình lên Quốc Hội thông qua thì việc lấy ý kiến nhân dân khác hẳn với trưng cầu ý dân. Tập hợp ý kiến của nhân dân để chỉnh lý bản dự thảo Hiến Pháp, công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp." [10]

Một thủ tục soạn thảo hiến pháp mà "công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp" xác định tính chất mất dân chủ của hiến pháp nầy. Đó là trường hợp ra đời của các hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Đồng thời đó là lời xác minh sự vi phạm trầm trọng điều 70 của hiến pháp 1946 về nguyên tắc trưng cầu dân ý những thay đổi hiến pháp.

Với lý luận hiến pháp, luật sư Thảo muốn thay mặt ĐSCVN xác nhận với nhân dân rằng hiến pháp hiện nay, trên cơ sở điều 70 của hiến pháp 1946, không dân chủ, và do đó, không hợp hiến và hoàn toàn không có giá trị pháp lý.

Một chế độ hợp pháp không thể được xây dựng trên một hiến pháp bất hợp pháp. Đây là khủng hoảng hiến pháp lớn nhất trong mọi khủng hoảng hiến pháp liên quan đến giá trị chính thống (legitimacy) của chế độ.

Mặt khác, sự hiện diện của các đảng phái không Cộng Sản trong việc hình thành hiến pháp 1946 cho thấy rằng có một mối tương quan chặt chẽ giữa tinh thần dân chủ đa nguyên và hiến pháp 1946.

Đối với người Cộng Sản, hiến pháp 46 cùng với tuyên ngôn độc lập 1945 là những di sản tinh thần lớn nhất của phong trào Việt Minh. Những văn kiện lịch sử nầy không những là quan điểm chính trị lõi cốt của Hồ Chí Minh, mà còn là lời kết ước nghiêm túc nhất của những người Cộng Sản đối với nhân dân Việt Nam.

Do đó, nếu hiến pháp 1946 thể hiện những lý tưởng và ước vọng của thế hệ 1945 về một tổ quốc độc lập, về một thể chế chính trị dân chủ pháp trị và đa nguyên, là biểu tượng sự đoàn kết của toàn dân trong công cuộc đấu tranh chống Pháp, là đỉnh cao của các phong trào cách mạng từ Phan bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, và phong trào Cộng Sản yêu nước, thì cái chết của nó là sự phản bội toàn bộ lý tưởng cứu nước và dựng nước của thế hệ 1945 và của nhân dân Việt Nam.

Vì lý do trên, mọi thay đổi hiến pháp dựa trên hiến pháp hiện nay hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và tính chính thống lịch sử. Muốn tái lập tính chính thống lịch sử và pháp lý của chế độ hiện nay, muốn xây dựng một chế độ dân chủ đa nguyên, điều thiết yếu là Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam phải trở về với những giá trị của hiến pháp 1946, phải trả lại cho nhân dân quyền làm chủ đất nước, và quyền phúc quyết mọi thay đổi hiến pháp.

V. Kết Luận

Vì hiến pháp là luật pháp tối cao xác định giá trị pháp lý của nhà nước, do đó, với một hiến pháp không có cơ sở pháp lý như hiến pháp hiện nay, nhà nước không có năng lực pháp lý để tồn tại. Và nhà nước không thể tiếp tục tồn tại và lãnh đạo đất nước trong tình trạng không hợp pháp, không hợp hiến và không có tính chất chính thống.

Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề không phải là vấn đề thay đổi chắp vá vài ba chương, hay hai ba điều khoản của hiến pháp hiện nay như ĐCSVN đề nghị, hoặc chỉ bỏ điều 4 hiến pháp như một số nhà đấu tranh dân chủ đề nghị. Những thay đổi hiến pháp chỉ có giá trị khi quyền phúc quyết hiến pháp của nhân dân được tái lập.

Khổng Tử viết: "thượng bất chính, hạ tắc loạn". Trong thời đại dân chủ, một nhà nước không có cơ sở hiến pháp dân chủ hợp pháp và chính thống để chứng minh sự tồn tại của nó là một trường hợp "thượng bất chính" nghiêm trọng nhất của mọi trường hợp "thượng bất chính" và nó chắc chắn sẽ dẫn tới một kịch bản "hạ tắc loạn".

Chúng ta có thể nhận định rằng nổ lực giải quyết khủng hoảng hiến pháp là đầu mối để tháo gở chế độ thượng bất chính hiện nay. Nó sẽ là căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Bất kỳ nhân dân một chọn lựa phương cách giải quyết khủng hoảng hiến pháp như thế nào, hoặc quay trở về với hiến pháp 1946 hoặc thực hiện một hiến pháp mới, tất cả đều phải tuân thủ nguyên tắc lập hiến của hiến pháp 1946. Nó sẽ là cơ sở pháp lý ắt có cho sự ra đời của một nước Đại Việt mới của thời đại 2000. Chỉ có giá trị của hiến pháp 1946 mới có thể tiếp nối tính chính thống về lịch sử và pháp lý của nhà cầm quyền, và phục hồi chổ đứng lịch sử của các đảng phái cách mạng yêu nước.

Với một hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nưóc của người dân, nhân dân Việt mới có thể hành xử quyền làm chủ đất nước của mình.

Chỉ có một chính quyền có giá trị chính thống về lịch sử và pháp lý mới có đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần để thực hiện công cuộc phục hưng dân tộc, phục hoạt văn hoá, và bảo toàn lãnh thổ, để tiếp nối sứ mạng cứu quốc tồn chủng của tiền nhân. Nội dung của cơ sở vật chất và tinh thần đó là một chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng. Đó là nền tảng của sức mạnh dân tộc để đưa đất nước ra khỏi cơ chế độc đoán trì trệ và ao tù của chuyên chính, để đưa dân tộc Việt vào giai đoạn cất cánh kinh tế toàn dân. Có như thế, nước Đại Việt của thời đại 2000 mới có thể hoà nhập được với cộng đồng các dân tộc văn minh tiến bộ của nhân loại ở thế kỷ 21, và để rửa mối nhục nghèo đói, ngu dốt và lạc hậu xã hội chủ nghĩa của thế hệ 45, một thế hệ rất hào hùng nhưng vô cùng bất hạnh.


LS Nguyễn Xuân Phước
viết lại 4/17/2005
Tính chất bất hợp pháp của hiến pháp hiện nay
8/8/2002

Sách Tham Khảo và ghi chú

[1] Jean Jacque Rousseau, Social Contract, lưu trữ ở http://books.mirror.org/gb.rousseau.html
[2] Nguyễn Xuân Chữ, "Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ". Nguyễn Xuân Phát và Chính Đạo hiệu đính, Văn Hoá, Houston ấn hành 1996. trang 301-310
[3] Chú thích của người viết: Các tài liệu lịch sử về cuộc bầu quốc hội và danh sách quốc hội rất là thiếu sót. Tôi rất mong được các nhà sử học trong nước và ngoài nước góp thêm ý kiến và sử liệu.
[4] Nguyễn Lý Tưởng, Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 77, Tác giả Xuất Bản Hoa Kỳ 2001
[5] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[6] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[7] Hoàn Cảnh Ra Đời và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1959
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp59.html
[8] Nguyễn Văn Thảo, "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp", Tạp Chí Cộng Sãn tháng 6-2001 http://www.cpv.org.vn/tccs/122001/10-nguyenvanthao.htm
[9] ibid.
[10] Lê Xuân Khoa, Việt nam 1945-1995, Tiên Rồng Xuất Bản, Hoa Kỳ 2004.

Monday, August 8, 2011

Đức chính thức cho rằng Trung Quốc là thủ phạm của nạn đói ở Somalia

Về nạn đói tồi tệ nhất trong vòng 60 năm qua đang hoành hành ở vùng phía Đông châu Phi, nhà điều phối chính sách Châu Phi của đã chỉ ra một thủ phạm không thể khác hơn, đó là: Trung Quốc.  Sau đây là bài của hang thông tấn AP:

Guenter Nooke nói với tờ Frankfurter Rundschau được phát hành hàng ngày rằng việc đó rõ ràng rằng "thảm họa này cũng là con người tạo ra".
"Đối với trường hợp của Ethiopia thì có nghi ngờ rằng việc các công ty nước ngoài, hay các quốc gia như Trung Quốc mua đất để thực hiện các công việc liên quan đến công nông nghiệp có quy mô lớn là rất hấp dẫn cho một tầng lớp nhỏ thuộc giới thượng lưu (châu Phi)" ông nói.
"Nó sẽ tốt hơn nhiều nếu chính phủ tập trung nỗ lực vào việc xây dựng hệ thống canh tác riêng của họ trong các vùng có lượng dân số lớn hơn."
Ông nói rằng các khoản đầu tư của người Trung Quốc tập trung vào nông nghiệp để xuất khẩu mà ông cho rằng có thể dẫn tới "xung đột xã hội quan trọng ở châu Phi khi số lượng nhỏ những người nông dân chỉ có đất đai của họ và do đó cuộc sống của họ bị lấy đi khi chính phủ lấy đất để giao cho nhà đầu tư Trung Quốc."
Hôm nay, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra một tuyên bố bằng văn bản kịch liệt phủ nhận cáo buộc. "Trung Quốc chưa bao giờ có kế hoạch để mua đất ở nước ngoài, và Trung Quốc chưa bao giờ mua đất ở châu Phi " , tuyên bố cũng cho biết thêm rằng những ý kiến của ông Nooke xuất phát từ " động cơ thầm kín. " Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng thông báo rằng sẽ cung cấp một khoản hỗ trợ lương thực khẩn cấp trị giá 14 triệu Đô la cho vùng sừng châu Phi.
Song song với việc Bắc Kinh phản đối trên, việc Trung Quốc đầu tư vào đất nông nghiệp châu Phi đã tăng đáng kể trong những năm gần đây, khi chính phủ tìm cách dập tắt những lo ngại về an ninh lương thực lâu dài. Một ước tính cho rằng số lượng công nhân trang trại của Trung Quốc ở châu Phi khoảng 1 triệu. Trong khi đó, tờ Đại Tây Dương trích dẫn một báo cáo tháng 6 năm 2009 đăng trên tạp chí Quan sát kinh tế hàng tuần của Trung Quốc, trong đó mô tả việc Bắc Kinh "đang lên kế hoạch để thuê và mua đất ở nước ngoài" để đối phó với "áp lực ngày càng tăng về an ninh lương thực " như thế nào.
Bài báo đó đã có lưu ý có giá trị rằng không Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài sở hữu đất đai lớn ở châu Phi ngày nay. Các nhà đầu tư tư nhân và nhà nước từ Ấn độ, Hoa Kỳ một số ít từ vùng Trung Đông có phần của họ trên đất châu Phi, và dẫn đến việc có khoảng từ 15 đến 20 triệu héc-ta đất của lục địa đã thuộc quyền kiểm soát của các nhà đầu tư nước ngoài từ năm 2006 và giữa năm 2009. Để so sánh, đó là bằng với kích thước của tất cả các đất nông nghiệp ở Pháp. Nếu ông Nooke đúng về kết nối giữa đầu tư nước ngoài và nạn đói, có vẻ như sẽ còn có rất nhiều nguyên nhân khác nữa.

Friday, August 5, 2011

Diễn văn tiễn các sinh viên tốt nghiệp ở Đại học Harvard - 2008

Diễn văn tiễn các sinh viên tốt nghiệp ở Đại học Harvard - 2008

. K. Rowling
Phụ cấp của thất bại và sự quan trọng của trí tưởng tượng
Nguyễn Khoa Thái Anh dịch

Khoảng một thập niên gần đây tác giả người Anh J. K. Rowling đã chinh phục con tim và óc tưởng tượng của nhiều thanh thiếu niên trên thế giới, chưa kể một số lớn độc giả có tuổi, với bộ truyện giả tưởng Harry Potter. Hiện tượng Harry Potter ra đời vào đầu thế kỷ 21 và danh tiếng nổi như cồn sau đó không phải không có duyên cớ. Cũng vậy, vào thế kỷ trước, người đồng hương của tác giả Rowling, ông J. R. R. Tolkien (1892-1973) với truyện The Lord of the Rings, viết vào thời Thế chiến thứ II, gửi gắm sự âu lo, thấp thỏm cùng nỗi bất an của cuộc sống ngoài đời vào câu truyện hư cấu, nơi mà điều thiện ác được sắp đặt theo ý muốn của tác giả. Có lẽ người viết truyện thần thoại muốn mang ý nghĩa của sự hướng thiện, thiện tâm thắng gian tà, quả báo luân hồi như một luật lệ tự nhiên của tạo hóa, làm điều răn cho thế thái nhân tình. Điều này cũng không khác hàm ý và ngụ ngôn trong dã sử và huyền sử của một quốc gia là mấy, khi người đời xưa, bất lực trước thiên tai hay dữ kiện khó hiểu do văn minh và kiến thức yếu kém của mình phải pha trộn hư thực hoặc mượn những điều huyền bí để giải thích những sự kiện lịch sử.

Các đại học ở Mỹ - nhất là các trường có tầm vóc - đều có truyền thống mời những người tiếng tăm đến đọc diễn văn tiễn đưa các sinh viên ra trường, khi họ bắt đầu bước vào ngưỡng cửa cuộc sống hiện thực. Hôm thứ Năm, 05.6.2008, bà Rowling đã đọc diễn văn tiễn các sinh viên tốt nghiệp ở Đại học Harvard, mang tên "Phụ cấp của thất bại và sự quan trọng của trí tưởng tượng". Bà đã làm nhiều người xúc động vì những lý tưởng cao cả và sâu xa hơn sự giàu có và danh tiếng của mình.

Trong lịch sử 357 năm, Harvard University - một đại học thuộc hàng khôi nguyên của thế giới - đã không thiếu những vị quan khách nặng ký như Tổng thống John F. Kennedy, và hai người đoạt giải Nobel văn chương như Alexander Solzhenitsyn (nhà đối kháng chế độ cộng sản Nga) và Vaclav Havel (Tổng thống, nhà văn, và kịch tác gia nổi tiếng của Cộng hòa Czech), hoặc Bill Gates đến đọc diễn văn chúc tụng ngày đăng khoa của sinh viên. Do đó đã có nhiều sự dè bỉu về chuyện mời một tác giả viết chuyện hoang đường cho trẻ em như J. K. Rowling, cho rằng tác giả không thể sánh vai với những người đi trước, đủ xứng đáng với vai trò thuyết trình của mình. Bất kể những lời phê bình, dèm pha về giá trị và chỗ đứng của bà Rowling trong văn học, thiết nghĩ thông điệp của bà Rowling quan trọng hơn danh vọng và truyện mộng tưởng của mình. Tôi xin tạm dịch bài diễn văn tiễn đưa sinh viên tốt nghiệp Harvard của bà.



***

Thưa hiệu trưởng Faust, thưa các thành viên Hội đồng Harvard và Ban Quản trị, các nhà giáo, các phụ huynh hãnh diện và nhất là các sinh viên tốt nghiệp,

Trước tiên tôi xin chuyển đến quý vị lời cảm ơn. Không những Harvard đã cho tôi một vinh dự lớn lao, mà những tuần lễ đầy lo sợ và nôn nao tôi phải bỏ ra suy tư về chuyện đọc diễn văn đã làm tôi sụt ký. Một thắng lợi cho cả đôi bên! Bây giờ tôi chỉ cần hít một hơi thật dài, nheo mắt nhìn những băng-rôn đỏ và cố nghĩ rằng mình đang ở một hội nghị Harry Potter gồm các thành viên có học thức nhất thế giới.

Đọc diễn văn chào mừng ngày tốt nghiệp là một trọng trách lớn lao; ít ra tôi nghĩ như vậy cho đến khi tôi liên tưởng đến chính ngày lễ ra trường của mình. Người đọc diễn văn hôm ấy là nhà triết gia Anh quốc nổi tiếng, bà nam tước Mary Warnock. Hồi tưởng về bài diễn văn đó đã giúp tôi rất nhiều trong việc viết bài nói chuyện hôm nay, vì nghĩ cho cùng, tôi không còn nhớ một lời nào bà ấy nói. Phát hiện này đã giải phóng tôi, giúp tôi mạnh dạn xúc tiến mà không sợ mình lỡ dại xúi bẩy các bạn bỏ rơi một sự nghiệp đầy hứa hẹn trong Luật Thương mại hay Chính trị để theo đuổi giấc mơ trở thành một thầy phù thủy vô tư.

Các bạn thấy chưa? Nếu trong nhiều năm tới đây, các bạn chỉ nhớ đến chuyện tếu về người phù thủy vô tư, các bạn vẫn nhớ đến tôi nhiều hơn bà nam tước Mary Warnock. Mục tiêu mà ta có thể đạt được là bước đầu tiên trong quá trình hoàn thiện cho bản thân.

Thật ra, tôi đã nghĩ nát óc xem mình phải nói gì với các bạn hôm nay. Tôi đã tự hỏi là vào cái tuổi ra trường thuở đó mình đã ao ước muốn biết những gì, và trong 21 năm kể từ ngày đó đến nay tôi đã thu thập được những bài học quan trọng nào.

Tôi tìm ra hai câu trả lời. Trong một ngày tuyệt vời như ngày hôm nay, khi chúng ta tụ tập nơi đây để mừng thành quả học tập của các bạn, tôi đã quyết định nói chuyện với các bạn về lợi ích của sự thất bại. Và vì các bạn đang đứng trước ngưỡng cửa của cái mà người ta hay gọi là cuộc sống thực tế, tôi cũng muốn ca ngợi sự quan trọng của trí tưởng tượng.

Điều này mới nghe ra thì thấy có vẻ là một chọn lựa quái dị và nghịch lý, nhưng xin các bạn kiên nhẫn với tôi một chút.

Hình dung lại tuổi 21 lúc mới ra trường là một việc không được dễ chịu lắm đối với một người đàn bà đã đến tuổi 42 như tôi hôm nay. Nửa cuộc đời trước đây, tôi đang cố tìm sự thăng bằng giữa tham vọng của mình và những gì người thân trong gia đình muốn tôi phải đạt được.

Lúc đó tôi tin chắc rằng điều duy nhất mình muốn theo đuổi là viết tiểu thuyết. Nhưng bố mẹ tôi, những người xuất thân nghèo khó và không được học đại học, cho rằng trí tưởng tượng quá khích của tôi là một cá tật ngộ nghĩnh không cách nào có thể làm ra tiền để trả tiền nhà hay đảm bảo cho một đồng lương hưu trí về sau.

Cả hai người đều muốn tôi học nghề; còn tôi thì muốn theo đuổi nghiệp Anh văn. Chúng tôi đã đạt một thỏa hiệp mà bây giờ nghĩ lại cũng chẳng làm hài lòng ai cả, và tôi đã theo ngành Sinh ngữ Hiện đại. Trước khi ôtô của bố mẹ tôi vừa rẽ khuất khúc cua là tôi bỏ ngay lớp Đức văn để chạy tọt xuống hành lang Cổ văn.

Tôi không nhớ đã nói với bố mẹ là mình đã theo Cổ văn; có lẽ họ chỉ biết được chuyện này trong ngày lễ ra trường của tôi. Trong các môn học trên hành tinh này, thiết nghĩ nếu muốn tìm được một chìa khoá vào một phòng tắm sang trong một nội thất cao cấp, cha mẹ tôi khó có thể tìm được một môn học nào vô tích sự hơn môn Thần thoại Hy Lạp.

Tôi xin nói rõ là tôi không trách bố mẹ mình vì quan điểm của họ. Khi bạn đủ lớn để tự lèo lái cuộc đời mình, trách nhiệm thuộc về bạn, và bạn không thể trách bố mẹ là đã hướng bạn đi nhầm đường được nữa. Ngoài ra, tôi không thể trách bố mẹ vì đã hy vọng rằng tôi sẽ không bao giờ lâm cảnh nghèo khó. Cả hai bố mẹ tôi đều nghèo, và tôi cũng đã nghèo, và tôi đồng ý với họ rằng nghèo đi cùng với hèn. Nghèo khó mang theo sợ hãi và nhiều lúc cả trầm mặc; nó kéo theo hàng ngàn những nỗi nhục nhã và khó khăn nho nhỏ. Thoát khỏi nghèo khó bằng chính nỗ lực của mình, đó mới đích thực là điều đáng hãnh diện, và chỉ có ngớ ngẩn mới đi lãng mạn hóa sự nghèo khó mà thôi.

Điều mà tôi sợ nhất ở tuổi các bạn không phải là sự nghèo khó, mà là sự thất bại.

Ở tuổi của các bạn, mặc dù không hứng thú chút nào với đại học đường, nơi mà tôi bỏ quá nhiều thì giờ trong các quán cà phê để ngồi viết truyện và quá ít giờ ở các giảng đường, không hiểu sao tôi vẫn qua được các bài thi, và trong nhiều năm, đó là thước đo thành công của cuộc đời tôi và cuộc đời các bạn tôi.

Tôi không đến nỗi khờ khạo mà cho rằng vì các bạn còn trẻ, tài giỏi và học vấn cao, các bạn không bao giờ gặp khó khăn hay buồn khổ. Tài năng và trí thông minh chưa bao giờ ngăn ngừa ai tránh khỏi những nổi trôi của Định mệnh, và không một giây phút nào tôi lại cho rằng mọi người ở đây đều trải qua một cuộc sống ưu tú và toại nguyện chưa hề bị xáo trộn.

Tuy nhiên, việc mà các bạn đã tốt nghiệp ở Harvard nói lên một điều: các bạn không quen thuộc lắm với thất bại. Có lẽ lo sợ thất bại thúc đẩy các bạn mạnh mẽ ngang với ham muốn thành công. Về học vấn, các bạn đứng cao đến mức quan niệm về thất bại của các bạn có thể không khác mấy với quan niệm về thành công của một người thường.

Cuối cùng thì ai cũng phải tự định nghĩa thế nào là thất bại, nhưng nếu bạn muốn, thiên hạ luôn có sẵn những tiêu chuẩn để đưa ra trước mặt bạn. Tôi nghĩ công bằng mà nói thì 7 năm sau ngày ra trường, tôi đã thất bại một cách thê thảm, xét theo bất kỳ tiêu chuẩn thường tình nào. Một cuộc hôn nhân quá ngắn đã sụp đổ, và tôi bị thất nghiệp, trở thành một người mẹ độc thân, và nghèo đến mức không thể nghèo hơn được nữa ở nước Anh hiện đại, trừ phi lâm vào cảnh vô gia cư. Những lo sợ mà bố mẹ tôi và của chính tôi dành cho mình đã trở thành sự thật, và theo như bất cứ một tiêu chí bình thường nào, bản thân tôi là sự thất bại lớn nhất.

Tôi sẽ không nói với các bạn rằng thất bại là vui. Trong đời tôi khoảng thời gian đó là những chuỗi ngày đen tối, và tôi không thể tưởng tượng được rằng cái mà báo chí vẫn gọi là kết cục của chuyện cổ tích sẽ xảy ra. Tôi không biết đường hầm sẽ kéo dài bao xa, và trong một thời gian dài, tia sáng cuối đường hầm là một niềm hy vọng hơn là một hiện thực.

Nếu thế thì tại sao lại nói về lợi điểm của thất bại? Đơn giản là vì thất bại có nghĩa là tước bỏ hết những chuyện phù phiếm. Tôi thôi không đóng kịch làm người khác nữa, và bắt đầu dốc hết nỗ lực để hoàn tất công việc có nghĩa lý nhất đối với mình. Nếu tôi thành công trong bất kỳ một phạm trù nào khác, có lẽ tôi đã không đủ bền chí để đeo đuổi và thành công trong lĩnh vực mà tôi tin tưởng rằng đúng là lĩnh vực của mình. Tôi được giải phóng, vì mối sợ lớn nhất của tôi đã xảy ra, và tôi vẫn còn sống sót, vẫn còn một người con gái tôi yêu, một cái máy chữ và một ý tưởng lớn. Cho nên đáy sâu vực thẳm đã là điểm tựa vững chắc cho tôi xây dựng lại cuộc đời.

Có lẽ các bạn sẽ không bao giờ bị thất bại như tôi đã trải qua, nhưng trong cuộc đời, thất bại là không thể tránh khỏi. Không thể sống mà không thất bại trong một việc gì đó, trừ phi ta sống dè dặt tới mức có thể coi như chưa sống – trong trường hợp đó, cả cuộc đời ta sẽ là một sự thất bại.

Thất bại mang lại cho tôi một an bình về nội tâm mà tôi không bao giờ có khi thi đỗ những bài thi. Thất bại dạy cho tôi những điều về bản ngã của mình mà tôi không thể nào học được bằng cách nào khác. Tôi khám phá ra là tôi mạnh mẽ và kỷ luật hơn là mình tưởng; và cũng biết được rằng mình có nhiều người bạn đáng giá ngàn vàng.

Ý thức được chuyện mình vượt qua những khó khăn để trở nên khôn ngoan và kiên cường hơn có nghĩa là từ rày về sau mình có thể bình tâm hiểu rằng mình có khả năng tồn tại. Các bạn không thể hiểu được bản thân mình hay bản chất những mối quan hệ của mình cho đến khi chúng được thử thách trong nghịch cảnh. Hiểu được bản thân mình và bản chất các mối quan hệ của mình là một phần thưởng lớn, bất chấp những giọt nước mắt đã phải chảy để có được nó, và nó đáng giá hơn bất cứ những thành tích nào mà tôi đã đạt được.

Nếu tôi đi ngược được thời gian, tôi sẽ khuyên mình ở tuổi 21 rằng hạnh phúc cá nhân nằm ở chỗ biết được cuộc đời không phải là một danh sách những thành tích. Học vị và tiểu sử của các bạn không phải cuộc đời của các bạn, tuy rằng các bạn sẽ gặp những người ở tuổi tôi hoặc lớn hơn hay lẫn lộn giữa hai thứ này. Cuộc đời khó khăn, phức tạp lắm, nó nằm ngoài mức kiểm soát trọn vẹn của bất cứ ai, và nếu bạn đủ khiêm nhường để hiểu được điều này, bạn sẽ vượt qua được những thăng trầm của nó.

Có thể các bạn nghĩ rằng tôi chọn tiêu đề thứ hai, sự quan trọng của trí tưởng tượng, vì cái phần đời của tôi mà nó đã giúp làm lại, nhưng không phải hoàn toàn như vậy. Tuy tôi sẽ bảo vệ đến hơi thở cuối cùng thói quen kể chuyện cho con cháu trước khi đưa chúng vào giấc ngủ, tôi đã học được cách đánh giá trí tưởng tượng theo nghĩa rộng hơn. Trí tưởng tượng không chỉ là khả năng độc đáo của loài người để hình dung những chuyện không có, và vì vậy, là nền tảng cho tất cả những phát minh và sáng tạo. Có thể nói rằng nó là khả năng giúp mang lại sự thay đổi và tỉnh ngộ nhiều nhất, giúp chúng ta có được sự đồng cảm với những con người có cuộc đời khác hẳn với chúng ta.

Một trong những kinh nghiệm chốt yếu nhất trong đời tôi xảy ra trước khi tôi viết Harry Potter, tuy rằng nó ảnh hưởng nhiều đến những gì tôi viết sau này trong những quyển truyện đó. Kinh nghiệm này đến với tôi qua những việc làm ban ngày đầu tiên của tôi. Mặc dù tôi hay rút thì giờ ăn trưa để viết truyện, tiền thuê nhà trong những năm đầu của tuổi 20, tôi trả bằng cách làm việc ở phân khu nghiên cứu về châu Phi ở Trung tâm Ân xá Quốc tế tại London.

Trong văn phòng nhỏ bé của tôi, tôi đọc những bức thư viết vội vàng đã được lén lút truyền ra khỏi những chế độ toàn trị bởi những con người dám chấp nhận khả năng bị giam cầm tù tội để cho thế giới bên ngoài biết chuyện gì đã xảy đến cho họ. Tôi đã thấy hình ảnh của những người bị biến mất không để lại dấu vết, do những gia đình và thân hữu tuyệt vọng của họ gởi đến cho Ân xá Quốc tế. Tôi đọc những lời khai của những nạn nhân bị tra tấn và nhìn thấy ảnh của những thương tích của họ. Tôi mở những lá thư của nhân chứng cho biết những vụ xử tử, kết tội tại chỗ không được tòa án xét xử, những vụ bắt cóc và hãm hiếp.

Nhiều đồng nghiệp của tôi là cựu tù nhân chính trị, những người bị đẩy ra khỏi nhà, hoặc phải lưu vong xa xứ sở, chỉ vì họ dám nghĩ khác với chính quyền của họ. Trong số những người viếng thăm văn phòng chúng tôi, có những người đến cho tin tức, hoặc đến để tìm tông tích của những người thân mà họ phải bỏ lại quê nhà.

Tôi sẽ không bao giờ quên một nạn nhân châu Phi bị hành hạ, một người thanh niên chỉ khoảng tuổi tôi vào thời đó, một người bị xáo trộn thần kinh sau những gì anh ta phải chịu đựng ở quê hương. Anh ta run rẩy không kềm chế được khi nói chuyện trước ống kính về những bạo hành mà anh ta đã trải qua. Anh cao hơn tôi khoảng 30 cm, và trông mỏng manh như một đứa trẻ. Tôi được giao nhiệm vụ đưa anh xuống trạm xe điện ngầm sau đó, và người đàn ông này, với cuộc đời bị bạo lực băm vằm của mình, đã nắm lấy tay tôi với một sự nhã nhặn và ưu ái, và chúc tôi hạnh phúc trong tương lai.

Và cho đến hết cuộc đời mình, tôi sẽ không bao giờ quên khi đi qua hành lang vắng, bỗng nhiên nghe một tiếng hét thảm thiết đằng sau một cánh cửa đóng, đau đớn và kinh khiếp, một tiếng thét mà cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ nghe một tiếng nào kinh hoàng hơn. Cánh cửa mở ra, và cô nhân viên thò đầu ra bảo tôi đi pha hộ cho người đàn ông ngồi cạnh cô một cốc trà nóng. Cô vừa cho anh ta biết tin mẹ của anh vừa bị bắt và xử tử để trả đũa cho việc anh nói thẳng về chế độ của xứ sở mình.

Mỗi ngày làm việc trong tuổi 20 của tôi, tôi đều được nhắc nhở là mình đã may mắn như thế nào vì được sống trong một quốc gia có chính quyền dân cử, nơi mà đại diện pháp lý và và xét xử công khai là quyền lợi của mỗi người.

Mỗi ngày, tôi chứng kiến thêm những chuyện tàn ác mà loài người gây cho đồng loại mình, để chiếm và giữ quyền lực của mình. Tôi đã bắt đầu có những cơn ác mộng, thực sự như vậy, về những chuyện tôi thấy, nghe và đọc được.

Nhưng tôi cũng học được nhiều về sự tốt lành của con người ở Ân xá Quốc tế hơn bất cứ nơi nào khác.

Ân xá Quốc tế huy động cả ngàn người chưa bao giờ bị tra tấn hay giam cầm vì tư duy của mình để giúp cho những người là nạn nhân. Sức mạnh của sự cảm thông của loài người sẽ dẫn đến những hành động chung vai sát cánh cụ thể, cứu được mạng sống và giải thoát cho những người bị giam cầm. Những người bình thường, mà sự an sinh cá nhân được đảm bảo, kết hợp với nhau trong một số đông đáng kể để cứu vớt những người họ chưa quen biết hoặc sẽ không bao giờ gặp. Sự đóng góp nhỏ bé của tôi trong chu trình đó là một trong những kinh nghiệm tạo cảm hứng và khiến tôi phải hạ mình nhất trong cuộc đời.

Không như bất cứ một sinh vật nào khác trên thế gian này, loài người có thể học và hiểu biết mà không cần phải trải nghiệm. Họ có thể đặt ý nghĩ của mình vào trí óc của kẻ khác, tưởng tượng mình trong hoàn cảnh của đồng loại.

Tất nhiên, đây là một khả năng mà ta có thể dùng để phục vụ cả cái xấu lẫn cái tốt, giống như những phép lạ trong truyện của tôi. Người ta có thể dùng nó để thâu tóm và kiểm soát, cũng như để hiểu hay thông cảm.

Nhiều người không thích sử dụng trí tưởng tượng của mình một chút nào. Họ chọn cách nằm yên trong ranh giới bình an và quen thuộc của cuộc sống, không buồn thắc mắc nếu họ phải sinh ra trong một hoàn cảnh khác hơn kinh nghiệm bản thân mình thì sẽ ra sao. Họ từ chối không nghe tiếng la hét hoặc nhìn vào những xà lim; họ có thể đóng tim óc mình lại trước những khổ đau không dính dáng đến bản thân họ; họ có thể từ chối không muốn biết.

Có lẽ tôi cũng suýt ganh tị với những người sống được như vậy, chỉ có điều tôi không nghĩ rằng họ ít bị ác mộng hơn tôi. Chọn lối sống hẹp hòi, xa lánh đồng loại có thể đưa mình đến một trạng thái tâm thần, sợ hãi đám đông, tự nó cũng mang đến những kinh hoàng. Thiển nghĩ những kẻ cố tình không có óc tưởng tượng như thế sẽ gặp nhiều ác quỷ. Họ thường sợ sệt hơn.

Hơn nữa, những người chọn sự vô cảm thường giúp sản sinh thêm nhiều ác quỉ trên đời này. Vì cho dù chính chúng ta không phạm tội ác độc, chúng ta đã đồng lõa với tội ác vì sự thờ ơ của chúng ta.

Một trong nhiều cái tôi học được ở cuối hành lang khoa Cổ văn, nơi tôi lần mò đến lúc mới 18 tuổi với hy vọng tìm được một cái gì mà vào lúc đó tôi chưa định nghĩa được, là câu sau đây của tác giả Hy Lạp Plutard: "Những gì chúng ta đạt được trong nội tâm sẽ thay đổi được sự thật bên ngoài."

Đó là một mệnh đề phi thường, nhưng mặc dù vậy, nó được chứng minh hàng ngàn lần mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Nó nói lên phần nào sự gắn bó không thể tránh khỏi của chúng ta với thế giới bên ngoài, sự thật rằng chúng ta chạm đến cuộc đời những người khác chỉ vì chúng ta tồn tại.

Các bạn sinh viên tốt nghiệp Harvard hôm nay thân mến, khả năng các bạn sẽ thay đổi cuộc sống người khác là bao nhiêu? Sự thông minh, khả năng chuyên cần, siêng năng của các bạn, nền học vấn mà các bạn đã đạt được mang lại cho các bạn một địa vị độc nhất, và những trách nhiệm độc nhất. Ngay cả quốc tịch của các bạn đã đặt các bạn vào một vị thế khác thường. Tuyệt đại đa số các bạn là con dân của siêu cường quốc duy nhất còn lại trên thế giới. Cách bỏ phiếu của các bạn, lối sống của các bạn, cách biểu tình của các bạn, áp lực của các bạn đối với chính quyền của mình, có ảnh hưởng xa hơn biên giới của các bạn. Đó là ưu thế và cũng là gánh nặng của các bạn.

Nếu các bạn chọn tư thế và ảnh hưởng của mình để lên tiếng cho những người không có tiếng nói; nếu các bạn chọn không chỉ đứng cùng những kẻ có quyền lực mà đứng cùng những người yếu đuối; nếu các bạn giữ được khả năng tưởng tượng, đặt mình vào hoàn cảnh của những người không được may mắn như mình thì không chỉ có gia đình các bạn sẽ hoan nghênh sự hiện hữu của các bạn mà hàng vạn hàng triệu người sẽ ăn mừng các bạn, những người mà các bạn đã giúp cải thiện cuộc sống thực tại của họ. Chúng ta không cần phép lạ để sửa đổi thế gian này, chúng ta đã có sẵn trong người sức mạnh mà chúng ta cần; chúng ta có sức mạnh tưởng tượng những gì tốt lành hơn.

Tôi sắp xong. Tôi vẫn đặt kỳ vọng cuối cùng ở các bạn, một điều mà tôi đã có vào tuổi 21. Những người bạn ngồi chung với tôi trong ngày lễ ra trường đã trở thành những người bạn đồng hành trong suốt cuộc đời tôi. Họ là bố mẹ đỡ đầu của con tôi, những người mà tôi có thể tìm đến trong những lúc túng thiếu, khó khăn, những người bạn thật tốt và tử tế không kiện cáo tôi khi tôi mượn tên họ đặt cho những nhân vật Death Eaters trong truyện. Vào ngày lễ ra trường chúng tôi đã gắn bó rất khắng khít với nhau bằng một tình thương nồng ấm, chia sẻ những kinh nghiệm của một quá khứ không bao giờ có thể tìm lại được, và cố nhiên chúng tôi còn giữ những bằng chứng bằng hình ảnh mà ngày nay nếu có một ai trong chúng tôi ra ứng cử thủ tướng thì những bằng chứng này sẽ đáng giá vô cùng.

Cho nên hôm nay, tôi chỉ muốn chúc các bạn những tình bạn tương tự. Và ngày mai, tôi hy vọng nếu như các bạn không còn nhớ một chữ nào tôi nói hôm nay, các bạn sẽ nhớ mãi câu nói của Seneca, một trong những người La Mã xưa kia mà tôi gặp trong hành lang khoa Cổ văn khi trốn những nấc thang danh vọng để tìm sự thông thái của tiền nhân: "Đời cũng như một câu chuyện: không cần dài, mà cần tốt." Tôi xin chúc các bạn một cuộc đời tốt lành. Cảm ơn các bạn nhiều.

xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx


ext as prepared follows.
Copyright of JK Rowling, June 2008 President Faust, members of the Harvard Corporation and the Board of Overseers, members of the faculty, proud parents, and, above all, graduates.
The first thing I would like to say is 'thank you.' Not only has Harvard given me an extraordinary honour, but the weeks of fear and nausea I've experienced at the thought of giving this commencement address have made me lose weight. A win-win situation! Now all I have to do is take deep breaths, squint at the red banners and fool myself into believing I am at the world's best-educated Harry Potter convention.
Delivering a commencement address is a great responsibility; or so I thought until I cast my mind back to my own graduation. The commencement speaker that day was the distinguished British philosopher Baroness Mary Warnock. Reflecting on her speech has helped me enormously in writing this one, because it turns out that I can't remember a single word she said. This liberating discovery enables me to proceed without any fear that I might inadvertently influence you to abandon promising careers in business, law or politics for the giddy delights of becoming a gay wizard.
You see? If all you remember in years to come is the 'gay wizard' joke, I've still come out ahead of Baroness Mary Warnock. Achievable goals: the first step towards personal improvement.
Actually, I have wracked my mind and heart for what I ought to say to you today. I have asked myself what I wish I had known at my own graduation, and what important lessons I have learned in the 21 years that has expired between that day and this.
I have come up with two answers. On this wonderful day when we are gathered together to celebrate your academic success, I have decided to talk to you about the benefits of failure. And as you stand on the threshold of what is sometimes called 'real life', I want to extol the crucial importance of imagination.
These might seem quixotic or paradoxical choices, but please bear with me.
Looking back at the 21-year-old that I was at graduation, is a slightly uncomfortable experience for the 42-year-old that she has become. Half my lifetime ago, I was striking an uneasy balance between the ambition I had for myself, and what those closest to me expected of me.
I was convinced that the only thing I wanted to do, ever, was to write novels. However, my parents, both of whom came from impoverished backgrounds and neither of whom had been to college, took the view that my overactive imagination was an amusing personal quirk that could never pay a mortgage, or secure a pension.
They had hoped that I would take a vocational degree; I wanted to study English Literature. A compromise was reached that in retrospect satisfied nobody, and I went up to study Modern Languages. Hardly had my parents' car rounded the corner at the end of the road than I ditched German and scuttled off down the Classics corridor.
I cannot remember telling my parents that I was studying Classics; they might well have found out for the first time on graduation day. Of all subjects on this planet, I think they would have been hard put to name one less useful than Greek mythology when it came to securing the keys to an executive bathroom.
I would like to make it clear, in parenthesis, that I do not blame my parents for their point of view. There is an expiry date on blaming your parents for steering you in the wrong direction; the moment you are old enough to take the wheel, responsibility lies with you. What is more, I cannot criticise my parents for hoping that I would never experience poverty. They had been poor themselves, and I have since been poor, and I quite agree with them that it is not an ennobling experience. Poverty entails fear, and stress, and sometimes depression; it means a thousand petty humiliations and hardships. Climbing out of poverty by your own efforts, that is indeed something on which to pride yourself, but poverty itself is romanticised only by fools.
What I feared most for myself at your age was not poverty, but failure.
At your age, in spite of a distinct lack of motivation at university, where I had spent far too long in the coffee bar writing stories, and far too little time at lectures, I had a knack for passing examinations, and that, for years, had been the measure of success in my life and that of my peers.
I am not dull enough to suppose that because you are young, gifted and well-educated, you have never known hardship or heartbreak. Talent and intelligence never yet inoculated anyone against the caprice of the Fates, and I do not for a moment suppose that everyone here has enjoyed an existence of unruffled privilege and contentment.
However, the fact that you are graduating from Harvard suggests that you are not very well-acquainted with failure. You might be driven by a fear of failure quite as much as a desire for success. Indeed, your conception of failure might not be too far from the average person's idea of success, so high have you already flown academically.
Ultimately, we all have to decide for ourselves what constitutes failure, but the world is quite eager to give you a set of criteria if you let it. So I think it fair to say that by any conventional measure, a mere seven years after my graduation day, I had failed on an epic scale. An exceptionally short-lived marriage had imploded, and I was jobless, a lone parent, and as poor as it is possible to be in modern Britain, without being homeless. The fears my parents had had for me, and that I had had for myself, had both come to pass, and by every usual standard, I was the biggest failure I knew.
Now, I am not going to stand here and tell you that failure is fun. That period of my life was a dark one, and I had no idea that there was going to be what the press has since represented as a kind of fairy tale resolution. I had no idea how far the tunnel extended, and for a long time, any light at the end of it was a hope rather than a reality.
So why do I talk about the benefits of failure? Simply because failure meant a stripping away of the inessential. I stopped pretending to myself that I was anything other than what I was, and began to direct all my energy into finishing the only work that mattered to me. Had I really succeeded at anything else, I might never have found the determination to succeed in the one arena I believed I truly belonged. I was set free, because my greatest fear had already been realised, and I was still alive, and I still had a daughter whom I adored, and I had an old typewriter and a big idea. And so rock bottom became the solid foundation on which I rebuilt my life.
You might never fail on the scale I did, but some failure in life is inevitable. It is impossible to live without failing at something, unless you live so cautiously that you might as well not have lived at all - in which case, you fail by default.
Failure gave me an inner security that I had never attained by passing examinations. Failure taught me things about myself that I could have learned no other way. I discovered that I had a strong will, and more discipline than I had suspected; I also found out that I had friends whose value was truly above rubies.
The knowledge that you have emerged wiser and stronger from setbacks means that you are, ever after, secure in your ability to survive. You will never truly know yourself, or the strength of your relationships, until both have been tested by adversity. Such knowledge is a true gift, for all that it is painfully won, and it has been worth more to me than any qualification I ever earned.
Given a time machine or a Time Turner, I would tell my 21-year-old self that personal happiness lies in knowing that life is not a check-list of acquisition or achievement. Your qualifications, your CV, are not your life, though you will meet many people of my age and older who confuse the two. Life is difficult, and complicated, and beyond anyone's total control, and the humility to know that will enable you to survive its vicissitudes.
You might think that I chose my second theme, the importance of imagination, because of the part it played in rebuilding my life, but that is not wholly so. Though I will defend the value of bedtime stories to my last gasp, I have learned to value imagination in a much broader sense. Imagination is not only the uniquely human capacity to envision that which is not, and therefore the fount of all invention and innovation. In its arguably most transformative and revelatory capacity, it is the power that enables us to empathise with humans whose experiences we have never shared.
One of the greatest formative experiences of my life preceded Harry Potter, though it informed much of what I subsequently wrote in those books. This revelation came in the form of one of my earliest day jobs. Though I was sloping off to write stories during my lunch hours, I paid the rent in my early 20s by working in the research department at Amnesty International's headquarters in London.
There in my little office I read hastily scribbled letters smuggled out of totalitarian regimes by men and women who were risking imprisonment to inform the outside world of what was happening to them. I saw photographs of those who had disappeared without trace, sent to Amnesty by their desperate families and friends. I read the testimony of torture victims and saw pictures of their injuries. I opened handwritten, eye-witness accounts of summary trials and executions, of kidnappings and rapes.
Many of my co-workers were ex-political prisoners, people who had been displaced from their homes, or fled into exile, because they had the temerity to think independently of their government. Visitors to our office included those who had come to give information, or to try and find out what had happened to those they had been forced to leave behind.
I shall never forget the African torture victim, a young man no older than I was at the time, who had become mentally ill after all he had endured in his homeland. He trembled uncontrollably as he spoke into a video camera about the brutality inflicted upon him. He was a foot taller than I was, and seemed as fragile as a child. I was given the job of escorting him to the Underground Station afterwards, and this man whose life had been shattered by cruelty took my hand with exquisite courtesy, and wished me future happiness.
And as long as I live I shall remember walking along an empty corridor and suddenly hearing, from behind a closed door, a scream of pain and horror such as I have never heard since. The door opened, and the researcher poked out her head and told me to run and make a hot drink for the young man sitting with her. She had just given him the news that in retaliation for his own outspokenness against his country's regime, his mother had been seized and executed.
Every day of my working week in my early 20s I was reminded how incredibly fortunate I was, to live in a country with a democratically elected government, where legal representation and a public trial were the rights of everyone.
Every day, I saw more evidence about the evils humankind will inflict on their fellow humans, to gain or maintain power. I began to have nightmares, literal nightmares, about some of the things I saw, heard and read.
And yet I also learned more about human goodness at Amnesty International than I had ever known before.
Amnesty mobilises thousands of people who have never been tortured or imprisoned for their beliefs to act on behalf of those who have. The power of human empathy, leading to collective action, saves lives, and frees prisoners. Ordinary people, whose personal well-being and security are assured, join together in huge numbers to save people they do not know, and will never meet. My small participation in that process was one of the most humbling and inspiring experiences of my life.
Unlike any other creature on this planet, humans can learn and understand, without having experienced. They can think themselves into other people's minds, imagine themselves into other people's places.
Of course, this is a power, like my brand of fictional magic, that is morally neutral. One might use such an ability to manipulate, or control, just as much as to understand or sympathise.
And many prefer not to exercise their imaginations at all. They choose to remain comfortably within the bounds of their own experience, never troubling to wonder how it would feel to have been born other than they are. They can refuse to hear screams or to peer inside cages; they can close their minds and hearts to any suffering that does not touch them personally; they can refuse to know.
I might be tempted to envy people who can live that way, except that I do not think they have any fewer nightmares than I do. Choosing to live in narrow spaces can lead to a form of mental agoraphobia, and that brings its own terrors. I think the wilfully unimaginative see more monsters. They are often more afraid.
What is more, those who choose not to empathise may enable real monsters. For without ever committing an act of outright evil ourselves, we collude with it, through our own apathy.
One of the many things I learned at the end of that Classics corridor down which I ventured at the age of 18, in search of something I could not then define, was this, written by the Greek author Plutarch: What we achieve inwardly will change outer reality.
That is an astonishing statement and yet proven a thousand times every day of our lives. It expresses, in part, our inescapable connection with the outside world, the fact that we touch other people's lives simply by existing.
But how much more are you, Harvard graduates of 2008, likely to touch other people's lives? Your intelligence, your capacity for hard work, the education you have earned and received, give you unique status, and unique responsibilities. Even your nationality sets you apart. The great majority of you belong to the world's only remaining superpower. The way you vote, the way you live, the way you protest, the pressure you bring to bear on your government, has an impact way beyond your borders. That is your privilege, and your burden.
If you choose to use your status and influence to raise your voice on behalf of those who have no voice; if you choose to identify not only with the powerful, but with the powerless; if you retain the ability to imagine yourself into the lives of those who do not have your advantages, then it will not only be your proud families who celebrate your existence, but thousands and millions of people whose reality you have helped transform for the better. We do not need magic to change the world, we carry all the power we need inside ourselves already: we have the power to imagine better.
I am nearly finished. I have one last hope for you, which is something that I already had at 21. The friends with whom I sat on graduation day have been my friends for life. They are my children's godparents, the people to whom I've been able to turn in times of trouble, friends who have been kind enough not to sue me when I've used their names for Death Eaters. At our graduation we were bound by enormous affection, by our shared experience of a time that could never come again, and, of course, by the knowledge that we held certain photographic evidence that would be exceptionally valuable if any of us ran for Prime Minister.
So today, I can wish you nothing better than similar friendships. And tomorrow, I hope that even if you remember not a single word of mine, you remember those of Seneca, another of those old Romans I met when I fled down the Classics corridor, in retreat from career ladders, in search of ancient wisdom:
As is a tale, so is life: not how long it is, but how good it is, is what matters.
I wish you all very good lives.
Thank you very much.

Thursday, August 4, 2011

Thỉnh nguyện thư của thân phụ Anh Trần Huỳnh Duy Thức

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
–*–
THỈNH NGUYỆN THƯ CÔNG DÂN
Kính gửi:
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
- Tất cả Đại biểu Quốc hội toàn quốc
Đồng kính gửi:
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Tôi tên Trần Văn Huỳnh, 74 tuổi, nguyên là giáo viên Anh văn thuộc Sở Giáo dục Tp.HCM, được chuyển về Sở Văn hóa Thông tin Tp.HCM công tác tại Phòng Văn hóa Đối ngoại từ 1989 đến 2001 nghỉ hưu. Tôi là thân phụ của anh Trần Huỳnh Duy Thức, sinh năm 1966 (dưới đây gọi là con tôi) – người đã bị kết án 16 năm tù và 5 năm quản chế vì tội ”hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 bộ luật hình sự (dưới đây gọi là BLHS) vào năm 2010 bởi Toà án nhân dân Tp.HCM (bản án sơ thẩm số 19/2010/HSST tuyên ngày 20/1/2010, dưới đây gọi tắt là Bản án sơ thẩm) và Tòa Phúc thẩm thuộc Tòa án nhân dân Tối cao tại Tp.HCM (bản án phúc thẩm số 254/2010/HSPT tuyên ngày 11/5/2010, dưới đây gọi tắt là Bản án phúc thẩm).
Thưa các vị Đại biểu Quốc hội, tôi viết thư này đầu tiên xuất phát từ lòng tin và tình yêu thương tôi dành cho con tôi. Nhưng sau đó nó được dẫn dắt bởi động lực của một công dân chủ động sử dụng một cách có ý thức tất cả các quyền làm chủ của người dân được pháp luật bảo vệ. Và cuối cùng nó được kết thúc bằng một niềm tin và mong muốn sự tốt đẹp cho cả đất nước, trong đó có Nhà nước, Đảng cầm quyền và có cả cho con tôi và những người có hoàn cảnh tương tự.
Nó cũng bắt đầu từ sự rụt rè, lo sợ vốn là tâm lý chung của đa số người dân Việt Nam hiện nay khi đề cập đến các vấn đề chính trị của đất nước. Nhưng nhờ động lực nói trên tôi dần hiểu ra rằng nó là một việc làm không có gì sai trái hay vi phạm pháp luật cả, ngược lại nó còn được pháp luật bảo hộ và khuyến khích vì đó chính là tinh thần cốt lõi của Hiến pháp nước ta nhằm bảo vệ quyền làm chủ tối thượng của người dân, nhờ đó mới có thể xây dựng được một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chính vì vậy tôi đã đặt bút ký lên thỉnh nguyện thư này với một sự tự tin tràn ngập vào tương lai tốt đẹp của đất nước, vào lý tưởng và mục đích của Nhà nước ta và của Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền; và vào sự chính đáng và hợp pháp của những việc làm của con tôi, cũng như của những người đồng chí hướng, đều hướng đến những ước nguyện vì sự tốt đẹp cho đất nước không khác gì lý tưởng và mục đích của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, tôi cũng hiểu rằng những điều tốt đẹp như vậy sẽ không đến được nếu như tôi – với tư cách là một công dân bình thường như hàng chục triệu công dân khác – không dám mạnh dạn sử dụng đúng quyền làm chủ của mình một cách chủ động và có ý thức để nói lên nguyện vọng của mình đến cơ quan quyền lực tối cao đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân một cách công khai mà pháp luật cho phép. Và những điều tốt đẹp đó cũng sẽ không đến được nếu như tôi – với tư cách là một người cha, một cá nhân trong một xã hội được khẳng định là tôn trọng trên hết những quyền căn bản của con người theo chuẩn mực quốc tế được công ước Liên hiệp quốc về quyền con người mà Việt Nam đã ký vào – không quyết liệt đòi hỏi các cơ quan quyền lực nhà nước phải đảm bảo thực thi đúng trên thực tế những quyền đó của người dân được pháp luật qui định nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và của con mình mà tôi tin rằng đã bị kết án oan sai.
Tôi không phải là người bàng quan mà là người có nhiều suy nghĩ đến sự nghiệp phát triển của đất nước. Nhưng đã từ rất lâu rồi những suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở chính tôi hoặc cùng lắm là trao đổi với một vài người bạn thân. Cũng không biết tự bao giờ trong tôi hình thành một suy nghĩ thụ động rằng những vấn đề tôi và bạn bè tôi nghĩ đến thì chắc hẳn các vị đứng đầu đất nước cũng đã phải biết rõ rồi, mà không chịu nhìn nhận thực tế rằng những vấn đề đó ngày một trầm trọng. Nguyên nhân có lẽ một phần vì hiện tượng tăng trưởng kinh tế liên tục của đất nước, và một phần vì chưa thấy những vấn đề đó tác hại đến chính mình và gia đình mình. Nhưng giờ đây tôi đã thấy rất rõ rằng nếu mình không quan tâm đúng mức đến những vấn đề chung của xã hội thì tác hại của nó sẽ không chỉ xảy ra ở đâu đó mà còn đến với chính mình một cách nặng nề như tôi và gia đình đang gặp phải. Và đồng thời, lợi ích chung của xã hội sẽ không thể tốt đẹp nếu quyền lợi của mỗi cá nhân không được xã hội đó đảm bảo một cách công bằng và trên hết. Mọi sự nhân danh lợi ích chung nhưng xâm phạm đến quyền lợi của các cá nhân không những không hợp hiến mà còn làm mất đi động lực lành mạnh của toàn xã hội được hình thành bởi động cơ của mỗi cá nhân vì mưu cầu lợi ích chính đáng của mình mà tạo ra giá trị chung cho toàn xã hội.
Vì vậy tôi đã dằn vặt vì từng la trách con tôi gay gắt do đã bày tỏ sự phê phán về những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nhưng giờ đây tôi thấy quý trọng và yêu thương con tôi vô hạn, phải chịu cảnh tù tội oan sai chỉ vì đã nặng lòng vì đất nước mà cảnh báo trước những nguy cơ mà bây giờ đã trở thành hiện thực. Không chỉ cảnh báo, con tôi còn dành trọn tâm huyết nghiên cứu, tìm ra và kiến nghị một con đường để Đảng và Nhà nước phát triển đất nước tốt đẹp theo đúng lý tưởng mà xã hội XHCN nước ta hướng đến – mà con tôi gọi là Con đường Việt Nam với những chiến lược vận dụng quy luật khách quan để nhanh chóng đưa thực tế của cuộc sống tiến dần đến danh nghĩa tốt đẹp mà lý tưởng trên mong muốn. Chính thực tế trong việc thực thi pháp luật hiện nay đã và đang làm cho khoảng cách giữa thực tế và danh nghĩa này ngày càng dãn rộng ra và càng gây bất ổn cho đất nước.
Điều này đặt ra một yêu cầu, mà tôi thấy cấp thiết hơn bao giờ hết, là Quốc hội cần tập trung vào việc thực hiện quyền giám sát tối cao của mình nhằm chấn chỉnh để đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được Hiến pháp bảo vệ và các bộ luật của Quốc hội qui định phải được tôn trọng và thực thi trong thực tế. Tôi đề nghị các vị Đại biểu Quốc hội, với tư cách là người đại diện cho quyền và lợi ích của người dân trong tổ chức của bộ máy Nhà nước, hãy thẳng thắn nhìn nhận một cách thực tế sự nghiêm trọng của vấn đề này đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của cuộc sống, và hãy sử dụng đầy đủ quyền lực tối cao của mình để làm sao cho những giá trị tốt đẹp của luật pháp nước ta không chỉ nằm trên danh nghĩa mà phải đi được vào thực tế của cuộc sống. Khi đó thì Việt Nam mới có thể trở thành một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh được.
Tôi tin vào sự cần thiết của đòi hỏi trên, còn con tôi, trong Con đường Việt Nam, đã cho thấy đó là sự đòi hỏi tất yếu theo quy luật khách quan mà nếu được đáp ứng tốt thì sẽ chắc chắn có sự phát triển ổn định, bền vững cho đất nước. Tôi xin các vị Đại biểu Quốc hội dành chút thời gian đọc phần giới thiệu Con đường Việt Nam (được đính kèm) mà con tôi viết trước khi bị bắt để thấy được tâm huyết và trách nhiệm công dân của con tôi là đáng trân trọng như thế nào. Nó thể hiện không chỉ thái độ khoa học nghiêm túc của con tôi mà còn là ý thức công dân rất quan trọng và cần thiết cho xã hội nhưng lại đang thiếu vắng trầm trọng ở nước ta. Thế nhưng nó đã bị quy kết là ”một kế hoạch tổng thể nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” để kết tội con tôi ”hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 bộ luật hình sự (BLHS).
Tôi kính mong các vị Đại biểu Quốc hội dành thời gian đọc lá đơn yêu cầu giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm (đính kèm) kết án con tôi để thấy sự chủ quan và tùy tiện trong việc áp dụng luật như thế nào trong các hoạt động tư pháp. Nó cho thấy không chỉ sự bất chấp trước những sự thật khách quan và tính logic biện chứng của sự việc, mà còn là sự không tôn trọng những bộ luật được Quốc hội cân nhắc ban hành để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Điều đáng lo lắng là nó không còn là vấn đề cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến đến mức hầu hết người dân tưởng rằng đó là bản chất của hệ thống luật mà Quốc hội xây dựng. Đó là một thực tế mà tôi rất mong các vị Đại biểu Quốc hội dũng cảm thừa nhận để có được những giải pháp đúng đắn trước những vấn đề sống còn của đất nước.
Quốc hội khóa XIII đang nhóm họp kỳ đầu tiên với chương trình nghị sự có xem xét việc thay đổi bổ sung Hiến pháp theo đề xuất của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Những gì được đề cập liên quan đến đề tài này trong thông báo của hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng vừa rồi chưa cho thấy được những mấu chốt thay đổi căn bản. Nhưng tôi hy vọng rằng Đảng sẽ xuất phát từ nhu cầu thực tế của cuộc sống của người dân. Đồng thời tôi cũng mong muốn Quốc hội xem xét việc này trên tinh thần làm sao để đảm bảo được quyền và lợi ích của người dân hơn nữa trong thực tế, và phải hết sức lưu ý để tránh được nguy cơ mà con tôi đã cảnh báo là sẽ có những mong muốn thay đổi Hiến pháp để kéo những giá trị danh nghĩa xuống gần với thực tế tồi tệ của sự quan liêu – tham nhũng – cơ hội vốn đang khá phổ biến hiện nay trong cuộc sống nhằm hợp pháp hóa chúng để bảo vệ cho cái xấu. Và nếu vì phải tập trung cho việc sửa đổi Hiến pháp mà xao lãng trách nhiệm giám sát tối cao của Quốc hội để đảm bảo quyền lợi của người dân trong thực tế vận dụng và thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền, thì thật là tai hại.
Thưa các vị Đại biểu Quốc hội, qua sự việc sửa đổi Hiến pháp lần này, tôi yêu cầu quý vị cũng cần làm rõ một vấn đề quan trọng. Đó chính là: liệu một công dân bình thường có quyền mong muốn và đưa ra những kiến nghị thay đổi những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp hay không? Nếu không thì ai có quyền đó và nó được qui định ở đâu? Và những điều luật nào nói rằng những mong muốn nhằm thay đổi những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp là vi phạm pháp luật và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Tôi đã nghiên cứu và thấy rõ rằng Hiến pháp cho phép và bảo vệ quyền của bất kỳ công dân nào cũng được đưa ra các ý kiến của mình đối với các vấn đề của đất nước, trong đó có những lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Hiến pháp không giao cho bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào được độc quyền trong việc đưa ra ý kiến thay đổi hay điều chỉnh Hiến pháp cả. Và không có một điều luật nào của BLHS qui định rằng những mong muốn nhằm thay đổi các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp là xâm phạm đến khách thể mà điều luật đó hướng đến bảo vệ cả.
Thế nhưng con tôi và những người bạn trong cùng vụ án đã bị kết án chính vì những mong muốn như vậy. Điều này đang ngày càng phổ biến đối với nhiều vụ án bị cho là xâm phạm an ninh quốc gia đã và đang diễn ra. Và điều này không chỉ xâm phạm đến những quyền lợi chính đáng và hợp pháp của công dân, gây ra oan sai, mà còn đánh mất đi những động lực lành mạnh thúc đẩy sự phát triển tốt đẹp cho xã hội, và còn làm cho những giá trị tốt đẹp trên danh nghĩa của pháp luật ngày càng xa rời so với thực tế của cuộc sống.
Thưa Chủ tịch Quốc hội,
Thưa các vị Đại biểu Quốc hội,
Bằng bức thỉnh nguyện thư công dân này, với sự ý thức về trách nhiệm của một công dân đối với đất nước cũng như sự đòi hỏi chính đáng về quyền lợi hợp pháp mà đất nước phải đảm bảo cho công dân, cùng với những lý lẽ được trình bày như trên, tôi xin được chính thức đề nghị Quốc hội và từng Đại biểu Quốc hội 2 vấn đề:
1) Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội cần quan tâm, tập trung và có giải pháp hữu hiệu trong việc sử dụng quyền giám sát tối cao của mình để đảm bảo những giá trị tốt đẹp được Hiến pháp và Pháp luật qui định phải tạo ra được những giá trị tốt đẹp trong thực tế của cuộc sống của người dân, đặc biệt là phải đảm bảo để làm sao người dân có thể tự tin, chủ động và ý thức sử dụng hết những quyền của mình mà Hiến pháp và Pháp luật bảo vệ. Nhân đây tôi cũng xin biểu lộ sự đồng tình với ”Kiến nghị bảo vệ và phát triển đất nước” (ký ngày 10/7/2011) của một nhóm nhân sĩ trí thức gửi đến Quốc hội và Bộ chính trị đề nghị: ”Tìm mọi cách thực hiện đầy đủ mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được Hiến pháp qui định, nhằm giải phóng và phát huy ý chí và năng lực của nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc…”
2) Kính đề nghị Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội sử dụng quyền giám sát tối cao của mình để yêu cầu các cơ quan tư pháp có trách nhiệm xem xét lại các Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm đã kết án con tôi – Trần Huỳnh Duy Thức và anh Lê Thăng Long, anh Lê Công Định và anh Nguyễn Tiến Trung; cũng như cần xem xét những vụ án tương tự đã và đang diễn ra như trường hợp của luật sư Cù Huy Hà Vũ một cách đúng với bản chất của pháp luật và bản chất của sự việc khách quan. Tôi tin rằng điều này không chỉ là những việc cụ thể cần giải quyết theo tinh thần đòi hỏi của kiến nghị số 1 ở trên, mà còn là một việc chiến lược để tạo ra niềm tin và những động lực lành mạnh mới cho xã hội, để tránh sự rạn nứt và chia rẽ.
Kính mong Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội quan tâm đến thỉnh nguyện thư công dân này của tôi với một tinh thần trách nhiệm cao nhất của một cơ quan quyền lực cao nhất. Tôi xin cảm ơn và kính chào trân trọng.
Đính kèm:
1. Phần giới thiệu Con đường Việt Nam.
2. Đơn yêu cầu giám đốc thẩm.
3. Đơn kêu oan lần 3 gửi Chủ tich nước.
4. Thư con tôi đang viết để gửi Chủ tịch nước giới thiệu Con đường Việt Nam.
Ngày 27 tháng 7 năm 2011
Kính đơn,
Trần Văn Huỳnh
Ghi chú:
Địa chỉ liên lạc của tôi: 439F8 Phan Văn Trị, Phường 5, Quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh; điện thoại: 0903350117.